Bến Lộ Diêu đón tàu không số đầu tiên

Thứ hai, 20/10/2014 09:08

(Cadn.com.vn) - Chúng tôi về thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, H. Hoài Nhơn (Bình Định) để sáng tác ảnh về chủ đề "Biển-Đảo quê hương". Tại đây, chúng tôi bất ngờ gặp nhiều nhân chứng sống về sự kiện 50 năm về trước: Tháng 11-1964, chuyến hàng đầu tiên của tàu không số cập bến Lộ Diêu chi viện chiến trường Khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong câu chuyện với chúng tôi, Trung tá Lê Văn Nốt, một thuyền viên tham gia đưa tàu không số cập bến Lộ Diêu thời đó cho biết: "Việc chọn Lộ Diêu làm bến đón chuyến hàng đầu tiên cho Khu V đã được cấp trên tính toán rất kỹ. Ngay từ đầu năm 1960, đồng chí Trần Phi Khanh, một cán bộ tham mưu của Tỉnh đội được Tỉnh ủy Bình Định bổ sung  vào Ban lãnh đạo  phía nam H. Hoài Nhơn và một số xã phía bắc H. Phù Mỹ để xây dựng cơ sở và phát triển lực lượng du kích, nhưng thực ra đồng chí ấy có nhiệm vụ khảo sát các bến dọc biển để đón tàu từ miền Bắc vào chuyển hàng chi viện cho chiến trường Khu V.

Trên cơ sở khảo sát thực địa, Lộ Diêu đã được cấp trên lựa chọn"... Sở dĩ Lộ Diêu được vinh dự nhận lãnh trách nhiệm quan trọng đó là nhờ mấy lợi thế: là vùng giải phóng, có truyền thống cách mạng, lực lượng du kích mạnh, địa thế hiểm trở, phía đông thông ra biển, phía tây có dãy núi cao ngăn cách với QL 1, phía bắc có đèo Lộ Diêu, phía nam có đèo Hà Ra. Tại hai đèo này đều có lực lượng chốt giữ, sẵn sàng đánh chặn địch nếu chúng tổ chức càn quét vào Lộ Diêu.

CCB, Trung tá Lê Văn Nốt trao đổi với tác giả về việc đưa tàu cập bến Lộ Diêu năm 1964.

Về quá trình tham gia đoàn tàu không số của mình, CCB Lê Văn Nốt nhớ lại: Tháng 7-1963, cấp trên chọn ông và 3 người khác thành lập đoàn công tác đặc biệt do đồng chí Trần Phi Khanh phụ trách. Đoàn có nhiệm vụ vượt Trường Sơn ra Bắc báo cáo Trung ương quá trình chuẩn bị và sau đó sẽ tham gia đưa tàu vào Lộ Diêu. Về phía tỉnh Bình Định cũng song song lo chuẩn bị đầy đủ điều kiện để đón tàu. Sau khi ra Bắc, đoàn của ông Nốt được bổ sung về Đoàn 125 HQ và ông chính thức thành người lính trên tàu 401 thuộc Đoàn tàu không số huyền thoại.

Ngày 22-9-1964, tàu 401 chở trên 30 tấn vũ khí cùng hàng hóa, lương thực, nhiên liệu... lên đường vào Lộ Diêu, bắt đầu hành trình chi viện cho chiến trường Khu V. Tàu 401 có trọng tải 35 tấn, trang bị máy do Cộng hòa Dân chủ Đức viện trợ, được đóng theo dạng tàu cá miền Nam. Thủy thủ đoàn có 12 người. Thuyền trưởng là đồng chí Phạm Vạn (quê Quảng Ngãi); 2 thuyền phó là các đồng chí Trần Phấn và Trần Phi Khanh (quê Bình Định); Chính trị viên là đồng chí Đặng Văn Thanh (Bình Thuận) cùng 8 thuyền viên khác là Nguyễn Văn Hiệu, Phạm Trường Nam, Lê Văn Nốt, Lê Quang Hiến, Phạm Văn Dợn, Trần Kim Hiền, Ngô Dần và Đặng Hồng Hoàng.

Nhưng ngay khi tàu 401 vừa xuất phát, thời tiết thay đổi đột ngột. Gió đông-bắc tràn về, có lúc trên cấp 5, cấp 6. Khi  tàu 401 ra đến đảo Long Châu thì gió lên đến cấp 7, sóng ngày càng dữ dội. Để đảm bảo an toàn, tàu 401 đã phải quay về bến. Ngày 10-10-1964, tàu 401 tổ chức xuất phát lần thứ 2, nhưng lần này lại gặp bão. Chỉ huy đã đưa tàu tạm lánh vào đảo Hải Nam (Trung Quốc). Gần nửa tháng sau, ngày  25-10-1964, tàu 401 lại nhổ neo,  tiếp tục hành trình. Khi đến hải phận quốc tế, tàu 401 bị hạm đội 7 của Mỹ phát hiện và cho 2 máy bay theo dõi hướng di chuyển của "tàu lạ". Nhưng nhờ tàu 401 được ngụy trang tốt nên địch không phân biệt được   tàu của ta với các tàu đánh cá khác.

Bà Võ Thị Mai, cựu nữ du kích tham gia đón tàu không số và tấm bia ghi lại sự kiện
tàu không số vào bến Lộ Diêu năm 1964.

Tuy vậy, địch vẫn nghi ngờ, cho 2 tàu hải quân đóng tại Đà Nẵng bám sát theo. Tất cả CBCS trên tàu 401 đều xác định nếu bị địch phát hiện thì sẵn sàng chiến đấu, tổ chức hủy tàu, không để tàu và vũ khí rơi vào tay địch để bảo vệ bí mật con đường vận tải quân sự trên biển Đông. Nhưng rất may, đến ngày 31-10, khi tàu 401 vào gần vùng biển Bình Định, trời lại nổi gió, mưa to kèm theo sóng lớn nên tàu địch buộc phải rút lui. Chớp lấy thời cơ, thuyền trưởng Phạm Vạn ra lệnh cho tàu 401 nhằm hướng Lộ Diêu thẳng tiến. Nhưng do  mưa gió quá lớn đã khiến tàu 401 bị trôi dạt vào vùng biển Phù Mỹ. "Khi tôi phát hiện tàu 401 đang ở vùng biển Phù Mỹ thì đã 3 giờ sáng ngày 1-11-1964 nên chỉ  huy  đã cho tàu cắt sóng, xuyên trong mưa to gió lớn, ngược về Lộ Diêu. Đến 4 giờ sáng ngày 1-11-1964, tàu 401 nhận tín hiệu từ bờ và cập bến Lộ Diêu trong niềm vui không thể tả xiết", ông Nốt nhớ lại phút giây cập bến lịch sử năm đó.

Còn bà Võ Thị Mai, 75 tuổi, một nữ du kích năm xưa thì vẫn nhớ như in việc tham gia đón tàu của miền Bắc chi viện trong cái đêm giông bão mịt mù. Bà cho biết: "Việc đón tàu được chi bộ phổ biến rất kỹ. Hai con đèo đều có lực lượng du kích và bộ đội tăng cường canh gác, không cho người ra-vào. Gay cấn nhứt là khi tàu sắp vô. Trong điện thì trên nói tàu sẽ vào Lộ Diêu lúc nửa đêm. Tụi tui chuẩn bị sẵn sàng đón tàu, nhưng chờ hoài không thấy. Gần sáng thì mới thấy chiếc tàu lạ tấp vô. Lúc đầu,  anh em ở bến tưởng là tàu địch. Báo động hết, chuẩn bị đối phó. Nhưng các đồng chí ở HB15 (bộ phận đặc trách lo đón tàu) sau khi bình tĩnh quan sát, nhận ra là tàu của ta, đã phát tín hiệu đón tàu. Khi tàu vô, mọi người chạy ùa ra...".

Trẻ em nô đùa trên bãi biển Lộ Diêu.

Ngay sau đó, các lực lượng đã nhanh chóng triển khai vận chuyển vũ khí lên bờ, đào cát và chôn cất vũ khí... Đến 8 giờ sáng thì  chôn xong hơn 30 tấn vũ khí. Liên tục những đêm sau đó, ta tiếp tục huy động thêm cán bộ, đảng viên của xã Hoài Mỹ và thôn Phú Thứ (xã Mỹ Đức) để chuyển vũ khí lên kho tạm trên núi và từ đó lực lượng chuyên trách tỉnh Bình Định chuyển về kho bí mật an toàn . Nhưng do tàu 401 bị mắc cạn và hư hỏng nặng nên Ban Chỉ huy tàu đã quyết định đốt hủy tàu để xóa dấu vết. Tàu cháy suốt 3 ngày đêm. Để đánh lạc hướng địch, ta cho loan tin "tàu đánh cá của dân bị sóng đánh dạt vào bờ bốc cháy...".

Theo tài liệu lịch sử của Quân chủng Hải quân Việt Nam, số vũ khí do tàu 401 đưa vào Lộ Diêu năm 1964 được trang bị cho các trung đoàn chủ lực Quân khu V (sau này là Sư đoàn 3, Quân khu V) và lực lượng vũ trang trong tỉnh, góp phần vào chiến thắng trong chiến dịch Đông - Xuân 1964-1965 với những trận đánh lớn như: An Lão (12-1964), Đèo Nhông - Dương Liễu, Đồi Mười, Gò Bồi (2-1965)... và mở ra vùng giải phóng liên hoàn, cắt đường số 1 từ Bồng Sơn đi Quảng Ngãi. Từ đó, ta tạo ra thế và lực mới trước khi bước vào giai đoạn chống chiến tranh cục bộ của địch.

Dương Xuân Bình